⚠ Vui lòng bật JavaScript để có trải nghiệm tốt nhất trên website này!

GIAO TIẾP MÁY TÍNH VỚI VI XỬ LÍ 8085GIAO TIẾP MÁY TÍNH VỚI VI XỬ LÍ 8085

Anh chup man hinh 2025 08 03 153644
Miễn phí
Tác giả: Chưa cập nhật
Ngày: Trước 2025
Định dạng file: .PDF
Đánh giá post
10 lượt xem

I. ĐẶT VẤN ĐỀ:

Khi nhu cầu học tập ngày càng cao thì thiết bị, phương tiện dạy học càng đóng vai trò quan trọng. Nó giúp người thầy đỡ vất vả trong việc truyền thụ kiến thức, giúp người học nhanh chóng tiếp thu. Ngoài ra còn để minh họa, chứng thực một cách cụ thể những bài học mô tả trừu tượng.
Trong bài này, người thực hiện muốn đề cập đến môn học vi xử lý, lập trình vi xử lý – một môn học mang ý nghĩa thiết thực trong xã hội mà quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra từng ngày. Khi học môn này, người học không chỉ được học về cấu trúc vi xử lý cả phần cứng lẫn phần mềm, cách kết nối với các IC ngoại vi 8255, 8279,… mà còn phải sử dụng thành thạo Kit vi xử lý 8085,…
Khi viết một chương trình trên Kit VXL 8085 và để kiểm nghiệm chương trình đó thì người học phải qua các bước:
Bước 1: Xác định mục đích yêu cầu của chương trình.
Mục đích, yêu cầu được xác định từ đề bài hoặc một nhu cầu thực tế. Đây là mục đích chung của chương trình. Để thực hiện mục đích chung này, có thể sẽ phải qua nhiều bước mà mỗi bước là một mục đích cụ thể mới, được giải quyết bằng một chương trình nhỏ hơn, phát sinh trong giai đoạn viết lưu đồ.
Bước 2: Vẽ lưu đồ.
Lưu đồ dùng để trình bày cách giải quyết vấn đề. Thường thì ngôn ngữ dùng trong lưu đồ không phải là một ngôn ngữ máy xác định nào. Lưu đồ thực chất để giúp người thảo chương chia nhỏ một chương trình lớn. Từ lưu đồ tổng quát, có thể vẽ ra lưu đồ chi tiết.
Bước 3: Viết chương trình bằng ngôn ngữ gợi nhớ (ngôn ngữ Assembler).
Bước 4: Chuyển sang mã máy.
Bước 5: Nhập mã máy vào Kit bằng phím.
Bước 6: Chạy thử chương trình và kiểm tra kết quả.
Một chương trình được viết phải được chạy thử và kiểm tra kết quả. Kết quả phải đúng trong mọi trường hợp cho phép (điều kiện đặt ra trước) của chương trình, và từ kết quả kiểm tra mà phán đoán, nhận định lỗi để sửa chương trình từ đâu, có khi phải sửa lại cả lưu đồ.
Trong cách làm trên, ta nhận thấy có những khó khăn riêng sau:
Quá trình dịch từ ngôn ngữ gợi nhớ sang mã máy (bước 4) đòi hỏi sự quen thuộc bảng tra mã. Nếu không, việc này chiếm nhiều thời gian, và việc kiểm tra lại cũng chiếm không ít thời gian. Tại những lệnh jump, những lệnh call, cần phải xác định địa chỉ cụ thể, chính xác của ô nhớ rồi mới xác định được lệnh jump. Việc này chỉ hoàn tất khi chương trình được dịch sang mã máy gần như đầy đủ.
Ở giai đoạn nhập mã máy (bước 5), để nhập nhanh thì phải nhớ vị trí phím, phải nhập chính xác để tránh thời gian dò để sửa một chương trình nhập sai. Để nhập một byte cần gõ 3 phím và phải đối chiếu lại giữa bản dịch chương trình, nội dung hiển thị trên các led 7 đoạn cùng với địa chỉ ô nhớ và bàn phím.

Liên kết tải về

Xem thêm: